Thứ Hai, 1 tháng 10, 2012

Bao giờ có quỹ ETF nội địa tại Việt Nam?


Với dự thảo Thông tư hướng dẫn việc thành lập và hoạt động của quỹ hoán đổi (ETF), lần đầu tiên ETF chính thức được thừa nhận tại Việt Nam.
Theo TSKH. Nguyễn Thành Long, Vụ trưởng Vụ Quản lý quỹ, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, với cơ quan quản lý thì điều quan trọng là hoàn thành hành lang pháp lý đủ chi tiết, đủ thận trọng và đủ khả năng giám sát để triển khai sản phẩm ETF.

Xây dựng một Thông tư riêng cho quỹ ETF tại Việt Nam, thay vì chỉ một chương như dự tính trước đây, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước kỳ vọng gì vào ETF, thưa ông?

Việc ra đời quỹ ETF tại Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường. Với cơ quan quản lý thì điều quan trọng là hoàn thành hàng lang pháp lý đủ chi tiết, đủ thận trọng và đủ khả năng giám sát để triển khai sản phẩm.

Trong bối cảnh hiện nay khi mà nguồn vốn trong nội địa đang kém, chúng ta đang cần thu hút vốn nước ngoài, nếu có ETF sẽ hút thêm được nhà đầu tư nước ngoài tham gia, mà không phá vỡ tỷ lệ sở hữu. 

Khi nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ thì không hạn chế về tỷ lệ sở hữu, nhưng khi nhà đầu tư nước ngoài nhận lại danh mục cơ cấu (khi giao dịch trên thị trường sơ cấp), thì sẽ bị hạn chế. Bởi khi vượt quá tỷ lệ sở hữu 49% đối với nước ngoài thì hệ thống sẽ bán và thanh toán phần chênh lệch này bằng tiền cho nhà đầu tư. 

Bởi vậy, ETF vừa giúp tăng thu hút được nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường, vừa kiểm soát được tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam.

Vậy sớm nhất là bao giờ có quỹ ETF nội địa tại Việt Nam?

Thực ra chúng ta đang ở giai đoạn dự thảo quy định. Cùng song hành với xây dựng dự thảo, các sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm lưu ký (VSD) đang chuẩn bị cơ sở hạ tầng rất tích cực. Đối tượng mà ETF muốn hướng đến là rất rõ, bao gồm cả: nhà đầu tư cá nhân, các định chế trung gian, các ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát, các sở giao dịch chứng khoán, VSD. 

Như vậy, hầu như tất cả thành viên chủ chốt cho thị trường chứng khoán đều có thể tham gia vào hoạt động của ETF. 

Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới như Nhật Bản cho thấy sản phẩm này có tác động tích cực đối với thị trường thứ cấp: đặc biệt là tăng tính hấp dẫn cho thị trường. Ngoài ra, có những tác động hữu hiệu nhất định có thể phục vụ cho các hoạt động như: xử lý nợ xấu, sở hữu chéo, thậm chí dùng để ngăn ngừa khủng hoảng như một số nước đã từng sử dụng để triển khai.

Đối với xử lý nợ xấu và sở hữu chéo, vai trò của ETF là gì, thưa ông?

Theo kinh nghiệm từ Nhật Bản, Chính phủ nước này đã sử dụng quỹ ETF và quỹ REIT (quỹ đầu tư bất động sản) để xử lý nợ xấu và sở hữu chéo trong khối ngân hàng. Vào những năm 2002-2003, hệ thống các ngân hàng của Nhật Bản nắm giữ một lượng khá lớn chứng khoán: gồm các chứng khoán thuộc các công ty có liên quan của các chủ nợ (sở hữu chéo) và do thị trường chứng khoán tại Nhật bản thời điểm đó xuống, giá trị tài sản xuống thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến bản cân đối kế toán của ngân hàng (do trích lập dự phòng rủi ro thanh toán và đầu tư nhiều hơn, đồng thời giá trị tài sản/mức vốn hóa của các tổ chức này cũng giảm mạnh), làm tăng nợ xấu nói chung trong toàn bộ hệ thống. 

Để xử lý tình trạng này, sản phẩm ETF và REITS là hai công cụ hỗ trợ trong nghiệp vụ chứng khoán hóa, cùng với các giải pháp định chế khác mà Chính phủ Nhật đã đưa ra. Sản phẩm ETF dựa trên cơ chế hoán đổi, chuyển toàn bộ danh mục tài sản cơ cấu từ các ngân hàng sang các quỹ ETF, đồng thời các ngân hàng đó sẽ nhận lại các lô đơn vị ETF. 

Như vậy, ngân hàng đưa một danh mục có nhiều tài sản hiện có (bao gồm cả các chứng khoán của người có liên quan phát hành) chuyển vào quỹ, mà không nhất thiết phải bán toàn bộ tài sản thế chấp trên thị trường. Thay vì một danh mục đầu tư 3-5 chứng khoán, thì nay họ chỉ nắm giữ duy nhất lô chứng chỉ quỹ ETF, loại bỏ tình trạng sở hữu chéo. 

Vì đây là giao dịch giữa hàng đổi hàng, nên không gây áp lực giảm giá trên thị trường chứng khoán, và cũng không gây diễn biến xấu trên thị trường chứng khoán nên cải thiện được nợ xấu. 

Hơn nữa, khi tính thanh khoản của thị trường chứng khoán, giá của các tài sản trên thị trường chứng khoán và các thị trường khác lên cao thì cũng góp phần giảm nợ xấu, đặc biệt tại chính các tổ chức tài chính có danh mục đó.

Việc sử dụng quỹ ETF và REIT từ đó cũng sẽ giúp sớm cải thiện hệ số an toàn tài chính của các tổ chức tài chính, bảng cân đối kế toán, làm tăng giá trị trên bản này, qua đó các hoạt động trên thị trường cũng ít bị ảnh hưởng. 

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, những hiệu ứng tích cực về xử lý nợ xấu và sở hữu chéo đã từng ghi nhận được tại thị trường chứng khoán và nền kinh tế Nhật bản chưa chắc đã lặp lại tại Việt Nam, do điều này phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu tài sản bảo đảm cho các khoản nợ (xấu), cũng như cổ phiếu thuộc dạng sở hữu chéo đã niêm yết chưa và có nằm trong danh mục cơ cấu hay không.

Ngoài các hiệu ứng liên quan tới các vấn đề vĩ mô nêu trên, quỹ ETF đã từng là một công cụ chính mà chính quyền Hồng Kông đã sử dụng tới và đã thành công trong việc ngăn ngừa sự lan tỏa của khủng hoảng tài chính khu vực châu Á năm 1997 (quỹ Tracker Fund TraHK). 

Đây là bài học kinh nghiệm đáng quý mà nhiều nước sau đó đã nghiên cứu để sử dụng khi cần thiết.

Ông đánh giá thế nào về mức độ ảnh hưởng của ETF đối với thị trường chứng khoán Việt Nam?

Hiện nay, đã có quỹ ETF hoạt động tại Việt Nam, nhưng do các tổ chức nước ngoài quản lý. Họ sử dụng danh mục cơ cấu của Việt Nam, nhưng xây dựng trên bộ chỉ số họ tự tính toán, chứ không theo bộ chỉ số của Việt Nam. 

Khi quỹ ETF nội địa ra đời sẽ cạnh tranh tốt với các quỹ ETF nước ngoài đang hoạt động, bởi với quỹ nội địa sẽ được hưởng lợi từ khung pháp lý và hệ thống giao dịch hoán đổi có cho phép giao dịch song hành (arbitrage), mà quỹ ở nước ngoài không có cơ hội này. Vì vậy, tính hiệu quả của quỹ nội có thể sẽ cao hơn.

Theo Lan Hương
 Vneconomy

Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2012

Quỹ ETF nội sẽ mang lại hiệu quả


Khi quỹ ETF nội địa ra đời sẽ cạnh tranh với quỹ ngoại, bởi được hưởng nhiều cơ chế thông thoáng hơn từ hành lang pháp lý.

Dưới đây là chia sẻ của Tiến sĩ khoa học Nguyễn Thành Long, Vụ trưởng Vụ quản lý quỹ, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước về quỹ ETF.
- Ông có thể phân tích cụ thể tính khả thi của việc hình thành quỹ ETF trong tương lai gần?
Có khá nhiều tiền đề thuận lợi cho sự ra đời của quỹ ETF. Ngoài Thông tư 183/2011 về thành lập và quản lý quỹ mở, các bộ chỉ số VN30 và HNX30 hoạt động khá hiệu quả, thì Ủy ban chứng khoán đang khẩn trương hoàn chỉnh hai dự thảo Thông tư hướng dẫn về thành lập và hoạt động của quỹ ETF và quỹ đầu tư bất động sản (REIT).
Các thành viên thị trường như công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, ngân hàng thương mại, Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký (VSD)... đang rất quan tâm thúc đẩy phát triển quỹ ETF. Có sự trùng hợp thú vị là nếu triển khai sớm quỹ ETF và quỹ REIT, rất có thể chúng sẽ góp phần xử lý tình trạng nợ xấu và sở hữu chéo tiềm ẩn nhiều rủi ro trong hệ thống ngân hàng. Tại Nhật Bản hơn 10 năm trước, khi chính phủ nước này cho phép triển khai quỹ ETF và REIT đã có tác động tích cực như vậy.
Đã có quỹ ETF do tổ chức nước ngoài thành lập theo pháp luật nước ngoài đang hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Họ sử dụng danh mục cơ cấu là cổ phiếu đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Khi quỹ ETF nội địa ra đời sẽ cạnh tranh tốt với quỹ ETF nước ngoài, bởi quỹ nội địa sẽ được hưởng nhiều cơ chế thông thoáng hơn từ hành lang pháp lý. Vì vậy, tính hiệu quả của quỹ ETF nội địa sẽ cao hơn.
- Ủy ban chứng khoán có kỳ vọng trong năm 2013 sẽ xuất hiện quỹ ETF nội địa?
Cơ quan quản lý đang nỗ lực thiết kế khung pháp lý cho các sản phẩm quỹ đầu tư, trong đó có quỹ ETF, để sớm triển khai trên thực tế. Việc quỹ ETF ra đời sớm hay muộn là hoàn toàn tùy thuộc vào thị trường. Tuy nhiên, cùng với nền tảng cho sự ra đời của quỹ như hành lang pháp lý được thiết lập, thì khi bối cảnh thị trường thuận lợi sẽ sớm xuất hiện quỹ ETF.
- Như phân tích của ông, thì triển khai quỹ ETF sẽ gia tăng tính hấp dẫn cho thị trường chứng khoán, cụ thể ra sao?
Thứ nhất, nhà đầu tư nước ngoài đang có nhu cầu đầu tư qua quỹ ETF. Khi cho phép quỹ ETF hoạt động sẽ mở ra cơ hội thu hút thêm dòng vốn ngoại cho thị trường chứng khoán thông qua cơ chế: khi nhà đầu tư nước ngoài mua chứng chỉ quỹ, thì không hạn chế tỷ lệ sở hữu tối đa của bên nước ngoài là 49%, mà chỉ khi họ nhận lại danh mục cơ cấu mới bị điều chỉnh bởi quy định về tỷ lệ sở hữu này. Trong trường hợp họ nhận lại danh mục cơ cấu vượt quá tỷ lệ sở hữu tối đa 49%, thì hệ thống sẽ bán và thanh toán phần chênh lệch bằng tiền cho nhà đầu tư. Bởi vậy, giải pháp này phần nào gián tiếp nới room cho nhà đầu tư nước ngoài, nhưng vẫn kiểm soát được tỷ lệ sở hữu của họ tại các doanh nghiệp niêm yết.
Thứ hai, khi thanh khoản của thị trường chứng khoán được cải thiện, quỹ ETF càng làm tăng tính hấp dẫn cho thị trường, thu hút thêm nguồn vốn mới cho thị trường thứ cấp, củng cố niềm tin của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán nói chung. Qua đó, doanh nghiệp dễ dàng hơn trong triển khai các hoạt động huy động vốn, để tài trợ cho hoạt động sản xuất-kinh doanh. Kết quả kinh doanh khả quan sẽ quay trở lại tác động tích cực lên thị trường chứng khoán.
Thứ ba, khi quỹ ETF và quỹ REIT đi vào hoạt động, cũng có thể góp phần xử lý nợ xấu và tình trạng sở hữu chéo tiềm ẩn nhiều rủi ro trong hệ thống ngân hàng.
Việc này được thực hiện thông qua cơ chế: để lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, về nguyên tắc phải bán các tài sản bảo đảm, thế chấp cho các khoản nợ xấu; hoặc phải thiết lập các định chế chuyên về xử lý nợ xấu và hình thành thị trường mua bán nợ xấu. Nhưng khi thị trường mua bán nợ xấu chưa hình thành, cộng với thị trường bất động sản (bất động sản), thị trường chứng khoán kém thanh khoản như hiện tại, thì rất khó thực hiện được điều này (bản chất là xử lý các tài sản thế chấp như bất động sản, cổ phiếu).
Để giải quyết bế tắc đó, ngân hàng sử dụng danh mục tài sản hiện có chuyển thành lô chứng chỉ quỹ ETF, mà không nhất thiết phải bán toàn bộ tài sản thế chấp. Thay vì một danh mục đầu tư gồm 3-5 chứng khoán, thì nay chỉ còn nắm giữ duy nhất lô chứng chỉ quỹ ETF. Đây là giao dịch hàng đổi hàng, nên không khiến thị trường chứng khoán sụt giảm, không làm tồi tệ hơn bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
Thông qua các công cụ này sẽ giúp sớm cải thiện hệ số an toàn tài chính của các tổ chức tài chính, làm tăng giá trị trên bảng cân đối kế toán, giá trị vốn hóa của tổ chức phát hành không bị ảnh hưởng. Khi có trong tay lô chứng chỉ quỹ ETF, các ngân hàng chia nhỏ và đem ra giao dịch trên thị trường thứ cấp.
Khi thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản khởi sắc, giá chứng khoán, bất động sản có xu hướng tăng, sẽ làm tăng giá trị tài sản bảo đảm, tài sản đầu tư, giảm nợ xấu và giảm dự phòng trích lập trong hệ thống ngân hàng, tăng nguồn vốn khả dụng cung cấp cho nền kinh tế. Như vậy, giá các tài sản tài chính tăng sẽ có xu hướng làm giảm tình trạng nợ xấu, ngược lại với xu thế khi lãi suất có xu hướng tăng. Vì vậy, việc cải thiện tính thanh khoản của thị trường, củng cố lòng tin, thu hút thêm vốn vào thị trường chứng khoán cũng có tác động làm giảm nợ xấu.
- Nhà đầu tư có lợi thế gì khi đầu tư qua quỹ ETF, thưa ông?
Nếu giá thị trường của chứng chỉ quỹ ETF nhỏ hơn giá phát hành sơ cấp, nghĩa là giá trị danh mục cơ cấu cao hơn thị giá, thì nhà đầu tư sẽ gom chứng chỉ quỹ ETF trên thị trường thứ cấp để đổi lấy danh mục cơ cấu ăn chênh lệch. Ngược lại, nếu thị giá cao hơn giá trị danh mục cơ cấu, sức cầu trên thị trường thứ cấp quá lớn, thì các nhà đầu tư sẽ mua chứng khoán cơ cấu, rồi mang đổi cho công ty quản lý quỹ để lấy chứng chỉ quỹ ETF, sau đó bán ra thị trường kiếm lời.
Về bản chất, quỹ ETF sử dụng cơ chế của quỹ mở để xử lý vấn đề vênh giá của quỹ đóng. Giao dịch thứ cấp là giao dịch của quỹ đóng, nhưng giao dịch sơ cấp lại là giao dịch của quỹ mở. Khi tồn tại hai hình thức giao dịch này cùng một lúc sẽ xử lý được tình trạng vênh giá.
Đối với giao dịch thứ cấp thì không khác gì giao dịch cổ phiếu, bởi nhà đầu tư được mua, bán thông qua đặt lệnh trên hệ thống của Sở giao dịch chứng khoán, sử dụng tài khoản giao dịch chứng khoán như bình thường. Còn giao dịch sơ cấp là giao dịch hoán đổi hạch toán trên hệ thống của VSD theo phương thức: trên cơ sở yêu cầu của nhà đầu tư, VSD sẽ chuyển danh mục cơ cấu mà nhà đầu tư đang nắm giữ thành danh mục quỹ ETF. Khi đó, thay vì hạch toán là danh mục cơ cấu, thì nay là một lô chứng chỉ quỹ ETF. Giao dịch này thực hiện trên hệ thống hoán đổi của VSD.

'ETF giúp giải quyết nợ xấu và sở hữu chéo trong ngân hàng'


Chuyển cổ phiếu từ những tổ chức tài chính sang quỹ ETF, đổi lại các ngân hàng sẽ nhận được những lô đơn vị ETF. Những chứng khoán sở hữu chéo sẽ về quỹ chứ không nằm trong tay ngân hàng.

Theo Vụ trưởng Vụ quản lý quỹ, sự ra đời của quỹ ETF sẽ giúp chuyển cổ phần dưới hình thức sở hữu chéo sang danh mục cơ cấu của quỹ.
Trả lời báo chí tại hội thảo "Tìm hiểu về quỹ hoán đổi danh mục (ETF) và quỹ đầu tư bất động sản" do Ủy ban chứng khoán tổ chức chiều 21/9, ông Nguyễn Thành Long, Vụ trưởng Vụ quản lý quỹ cho biết, việc thành lập quỹ ETF sẽ giúp giải quyết vấn đề nợ xấu và sở hữu chéo trong ngân hàng.
Dẫn chứng cho việc này, ông Long lấy kinh nghiệm của Nhật Bản cho hay, năm 2002, 2003 hệ thống ngân hàng Nhật Bản nắm lượng lớn chứng khoán, trong đó bao gồm chứng khoán của những công ty liên quan (sở hữu chéo). Do cùng thời gian đó, thị trường chứng khoán Nhật Bản giảm, giá các cổ phiếu này bị ảnh hưởng khiến bảng cân đối kế toán của ngân hàng xấu đi. Ngoài ra, nợ xấu của hệ thống cũng bị tăng lên do những khách hàng thế chấp bằng chính những cổ phiếu đó.
Trước tình trạng này, chính phủ Nhật Bản đưa ra sản phẩm quỹ ETF để chuyển những danh mục cổ phiếu từ những tổ chức tài chính sang quỹ ETF, đổi lại các ngân hàng sẽ nhận được những lô đơn vị ETF. Như vậy, những lô chứng khoán sở hữu chéo sẽ chuyển về quỹ chứ không nằm trong tay ngân hàng.
Ngoài ra, việc chuyển những cổ phiếu đó vào quỹ là giao dịch hàng đổi hàng nên không gây áp lực giảm giá chứng khoán trên, và khi thanh khoản thị trường chứng khoán lên cao, giá thị trường tài sản cao thì sẽ góp phần làm giảm nợ xấu, ông Long nhận xét.
Tại hội thảo, ông Long cũng giới thiệu về cơ chế giao dịch ask/bid có thể áp dụng khi quỹ ETF được thành lập. Theo ông, đây là cơ chế đặc thù làm tăng thanh khoản và giảm chênh lệch giá giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Cụ thể, theo cơ chế giao dịch ask/bid, khi giá chứng chỉ quỹ ETF trên thị trường thứ cấp lớn hơn giá trị tài sản ròng, vào ngày giao dịch, nhà đầu tư sẽ bán chứng chỉ quỹ ETF (có thể vay trên hệ thống trung tâm lưu ký), đồng thời, mua danh mục cơ cấu quỹ ETF trên thị trường thứ cấp và yêu cầu phát hành các lô ETF trên thị trường sơ cấp (qua trung tâm lưu ký). Đến ngày thanh toán (áp dụng theo T+3), chứng chỉ ETF mới được tạo ra sẽ bù đắp cho chứng chỉ ETF đã bán trước đó.
Cũng với cơ chế giao dịch này, ở trường hợp giá chứng chỉ quỹ ETF thấp hơn giá trị tài sản ròng, vào ngày giao dịch, nhà đầu tư có thể bán danh mục cơ cấu (vay trên hệ thống trung tâm lưu ký), đồng thời, mua chứng chỉ quỹ ETF trên thị trường thứ cấp và yêu cầu bán lại lô ETF trên thị trường sơ cấp. Vào ngày thanh toán, danh mục cơ cấu nhận được từ quỹ ETF sẽ bù trừ cho danh mục cơ cấu đã bán.
Nhìn vào cơ chế giao dịch này, nhiều nhà đầu tư có thể nhầm với giao dịch bán khống. Tuy nhiên, ông Long khẳng định, cơ chế giao dịch ask/bid hoàn toàn khác biệt với giao dịch bán khống.
Cụ thể, nếu là giao dịch bán khống thì nhà đầu tư vay chứng khoán A phải bán ngay chứng khoán đó, sau đó thực hiện mua lại. Còn với cơ chế ask/bid, nhà đầu tư vay danh mục cơ cấu nhưng không bán danh mục cơ cấu mà bán ETF. Giao dịch bán khống làm giảm giá chứng khoán, trong khi giao dịch ask/bid đảm bảo giá chứng chỉ quỹ ETF luôn tiệm cận với giá trị tài sản ròng và không làm ảnh hưởng đến giá chứng khoán cơ cấu.
Tuy nhiên, theo ý kiến của ông Long, trước mắt chưa thể triển khai cơ chế giao dịch ask/bid ở Việt Nam bởi còn phụ thuộc vào nhận thức của thị trường và cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Với bán khống, Ủy ban chứng khoán không cho phép thực hiện hình thức giao dịch này.
Về việc đưa mô hình quỹ ETF vào áp dụng, ông Long cho hay, các Sở giao dịch, trung tâm lưu ký đang có những chuẩn bị tích cực để khi Thông tư ban hành có thể triển khai được ngay sản phẩm này. Ngoài ra, đối tượng hướng đến của ETF rất rộng, bao gồm nhà đầu tư, công ty quản lý quỹ, công ty chứng khoán, ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát, kinh nghiệm thị trường Nhật Bản cho thấy, sản phẩm ETF tác động tích cực tới thị trường thứ cấp, tăng tính hấp dẫn cho thị trường, vị này nhận xét.
Theo Gafin

Chứng khoán sẽ sôi động khi quỹ ETF ra đời


Bà Phạm Thị Lê Hương, Trưởng phòng Phân tích, Công ty chứng khoán Đầu tư Việt Nam (IVS) đánh giá, ETF ra đời sẽ thúc đẩy nhà đầu tư nhỏ lẻ tham gia tích cực hơn vào thị trường, giúp thanh khoản thoát khỏi tình trạng èo uột trong những tháng gần đây.
ETF tập hợp nhiều mã cổ phiếu, mang tính đa dạng với nhiều ngành, chi phí đầu tư được chia nhỏ đến các mã. Như vậy, nhà đầu tư không cần phải theo đuổi cả một “rổ” chứng khoán, mất nhiều thời gian để tìm hiểu và theo dõi. Trong khi đó, phí giao dịch của các quỹ ETF ngang hàng với các cổ phiếu khác. Thông tin về các mã cổ phiếu cấu thành chứng chỉ quỹ ETF sẽ liên tục được công bố, tránh tình trạng chậm báo cáo hay thiếu thông tin cần thiết. Cùng với đó, giá của các cổ phiếu này cũng được phản ánh khá chính xác, khi sự chênh lệch giữa giá thị trường và giá trị tài sản ròng (NAV) của ETF sẽ được lấp đầy bởi giao dịch song hành (arbitrage).
Tuy nhiên, ETF cũng mang trong nó một số hạn chế khi quỹ này chỉ tập trung vào việc sở hữu các mã vốn hoá lớn (large-cap), mà thiếu đi nhiều mã vốn hoá trung bình và nhỏ (mid-cap, small-cap) chiếm tỷ trọng lớn trên sàn chứng khoán.
Bên cạnh đó, danh mục đầu tư chỉ được thay đổi khi các cấu phần của chỉ số cổ phiếu của quỹ ETF thay đổi, mà không xem xét đến yếu tố cơ bản của mỗi cổ phiếu cấu thành chỉ số. Khi lượng giao dịch của quỹ này thấp, chênh lệch giá đặt mua/bán sẽ lớn.
Mặc dù thị trường thời gian qua đã tiếp nhận những giải pháp về lộ trình phát triển và định hướng từ nhiều chuyên gia và tổ chức, nhưng điều cần thiết nhất phải làm hiện tại là việc minh bạch các công ty niêm yết, tình trạng chậm nộp báo cáo tài chính hay thiếu thông tin cần phải được khắc phục.
Việc rà soát lại các công ty không đủ tiềm lực cũng cần được đánh giá chính xác. Tình trạng đầu cơ, thao túng thị trường cần phải được xử lý nghiêm khắc.